..


CHÀO CÁC BẠN GHÉ THĂM BLOG CỦA ĐOÀN LHSBUL 69'




Cảm ơn Bạn thăm Trang Blog
của Lưu học sinh học tại Bulgaria khoá 69-75!

ДОБРЕ ДОШЛИ В САЙТА НА БИВШИТЕ ВИЕТНАМСКИ СТУДЕНТИ В БЪЛГАРИЯ 1969-1975Г!


Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Lịch Thông Minh!

Quyển Lịch Thông Minh Suốt Đời

 GỬI TẶNG CÁC BẠN MÓN QUÀ QUÝ 
 Quyển Lịch Thông Minh Suốt Đời ...

Đây là luận án tiến sĩ của anh Hồ Ngọc Đức, (ở Đức).


Từ nay muốn biết ngày âm lịch để biết Tết , cúng giỗ .... không cần phải mua lịch ở các cửa hàng nữa.
Một Quyển Lịch thông minh mà các bạn có thể dùng suốt đời (Lifetime calendar)!

Nếu muốn XEM lịch các năm khác, chỉ cần đánh 4 con số của năm đó,  rồi bấm enter hay click OK là có ngay lịch của năm mình chọn.

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

БГ. КОЛЕДА

Thời gian còn đang học ở Bulgaria, khoảng những năm 1980, hầu như tôi không thấy người dân tổ chức những ngày lễ Thiên chúa giáo như Lễ Phục sinh (Великден), Noel (Коледа). Kể cả năm mới cũng tổ chức chủ yếu trong gia đình. Đang quen ở Hà Nội cứ đêm giao thừa là mọi người kéo nhau lên Hồ Gươm đi dạo vòng quanh các con phố cổ, tới Bulgaria đêm giao thừa năm học tiếng chúng tôi cũng rủ nhau ra quảng trường thành phố nhưng không khí ở đó vẫn như ngày thường, cảm giác thật là hụt hẫng. Từ khi xuống học ở Varna, năm nào hội sinh viên Việt Nam ở đó cũng tự tổ chức lễ đón năm mới. Nhiều bạn từ các thành phố khác cũng đến tham dự cùng, chương trình rất phong phú sôi nổi, ai đã từng tham gia chắc vẫn còn giữ lại đôi chút ấn tượng.
Nhưng từ sau năm 1990 tình hình ở Bulgaria đã dần thay đổi, đến nay quang cảnh những ngày lễ Thiên chúa giáo đã khác xưa rất nhiều. Vào những dịp lễ này, thánh đường nào cũng tưng bừng.
Những bóng đèn được thắp theo hình cây thông Noel tại Varna.
KOLEDA
Koleda (Giáng sinh) là phiên bản tiếng Bulgaria của tên Calende trong tiếng La Mã. “Calende” là từ người La Mã gọi ngày đầu tiên của mỗi tháng. Theo luật ngữ âm, kalendi trong ngôn ngữ tiếng Bulgaria trở thành Giáng sinh. Về điều này cũng chịu tác động nhiều của từ nguyên dân gian liên quan đến động từ “kolia (коля) - giết mổ”, chẳng phải vì ngày lễ mà giết nhiều lợn sao!!!
Đêm Giáng sinh, ở Bulgaria còn được gọi là Giáng sinh khô, Krachoun, Giáng sinh nhỏ, Mali Bozic … bắt đầu từ ngày 24/12 và kéo dài 3 ngày cho đến ngày Lễ Thánh Stefan 27/12 – ngày lễ cuối cùng trong năm.
Lễ Giáng sinh truyền thống
Ngày hôm trước Giáng sinh được tổ chức như một lễ Giáng sinh nhỏ (Маlkа Коlеdа). Theo tín ngưỡng dân gian, Đức Mẹ đã hạ sinh đứa trẻ vào đêm Giáng sinh nhỏ, nhưng vào ngày hôm sau mới thông báo (truyền thống bắt buộc các bà mẹ thông báo vào hôm sau ngày sinh). Vào sáng sớm ngày lễ, các koledarcheta (các bé trai nhỏ, từ 6-7 đến 10-12 tuổi) bắt đầu đi đến các nhà, (sau Chiến tranh thế giới thứ nhất trong đoàn rước Giáng Sinh có cả các bé gái). Chúng diện quần áo ngày hội, tay mang gậy cây dương đào và khoác chiếc túi sặc sỡ trên vai. Koledarcheta dạo quanh các làng, vào các nhà và vừa đào bới bếp lửa, vừa chúc phước „Да се роди, дето рало ходи, дето рало ходи и не ходи!” (tạm dịch: “Hãy sinh ra, nơi chiếc cày đi qua, nơi chiếc cày đi qua và không đi qua”.
Người chủ nhà cho chúng những chiếc bánh nhỏ, trái cây sấy khô, tiền lẻ và rắc lên người chúng hạt ngũ cốc để chúc sinh sôi nảy nở.
Những yếu tố quan trọng nhất trong ngày lễ này là Củi giáng sinh (Yule), bàn ăn với bánh lễ, các món ăn giáng sinh và carolling.
Badnik - Củi Giáng sinh (Yule log - Бъдник Коледен Уют
Công việc quan trọng trong chuẩn bị lễ Giáng sinh là chặt hạ và mang badnik về nhà. Badnik – đó là cây gỗ sồi hoặc cây lê, được một thanh niên trẻ chặt mang về nhà và dùng nó để giữ cho ngọn lửa cháy suốt đêm.
Người nam giới trẻ tuổi nhất trong gia đình, mặc quần áo lễ hội đi vào rừng. Anh chọn một cây sum suê và cứng cáp: gỗ sồi, cây du, lê, v.v… Trước khi chặt nó anh ta cầu mong sự tha thứ. Khi mang cây gỗ về nhà vác ở trên vai phải và không được chạm xuống đất. Mọi người ở nhà sốt ruột trông chờ. Khi mang củi vào nhà, chàng thanh niên hỏi: “Славите ли Млада бога?” (“Tạ ơn không Nữ thần trẻ?”). Những người phụ nữ trả lời: ”Славим, славим, добре дошъл!. (“Tạ ơn, tạ ơn! Hoan nghênh vào nhà”). Chàng thanh niên nói thêm: “Аз в къщи и Бог с мене!” (“Tôi vào nhà và Chúa đi cùng với tôi”).
Ở cuối cây gỗ có khoét một lỗ nhét đầy sáp, dầu thơm và trầm hương. Đầu này được bọc vải lanh trắng hoặc vải sợi gai và cây gỗ được đưa vào lò sưởi.
Cùng lúc đó những người người phụ nữ cất tiếng hát:
Ой, ти дръвце, право дръвце,
де си расло толкоз тънко,
толкоз тънко, та високо?
- Я съм дръвце, златно дръвце,
златно дръвце плодовито.
Ще порасна дор до небо,
клон ще пусна дор до земи,
лист ще листна дребен бисер,
цвят ще цъфна чисто сребро,
род ще родя сухо злато.
Слез ще по мен Млада Бога,
ще дарува добра дарба!
Vào tối đêm Giáng sinh cây củi sẽ cháy suốt đêm. Theo tín ngưỡng dân gian ngọn lửa trong đêm Giáng sinh phải được giữ cháy suốt đêm không để cho tắt, giữ ấm cho ngôi nhà cũng như biểu tượng ánh sáng của sự ra đời của Chúa Jesus và để trông thấy tổ tiên đã khuất trở về bàn tiệc dự lễ. Theo truyền thuyết cây củi Yule có sức mạnh ma thuật và chữa bệnh kỳ diệu. Mọi người tin rằng đêm Chúa ra đời sẽ có nhiều điều kì diệu xảy ra, sẽ mang lại sức khỏe và may mắn cho mọi người trong gia đình. Điều mơ ước có thể thành hiện thực trong năm tiếp theo, bởi vậy nên người ta thường ước trong đêm Giáng sinh điều mà năm trước họ không thực hiện được.
Ở một số vùng của đất nước vào buổi sáng họ dập tắt lửa bằng rượu vang và từ những mẩu gỗ chưa cháy hết người ta làm cho các bộ phận của cái cày và cây thánh giá vì sức khỏe. Tro thì rắc ra đồng ruộng, vườn nho và đồng cỏ, để sinh sôi. Từ cái cây đã bị chặt, họ làm các cọc cắm thành hàng rào quanh ruộng, để ngăn những kẻ lang thang và phù thủy vào cướp phá.
Bánh mì nghi lễ - обредния хляб
Bánh mì cho ngày lễ được làm rất cẩn thận. Từ tờ mờ sáng những người phụ nữ đã dậy sớm để chuẩn bị cho ngày lễ. Đặc biệt lưu ý là khâu chuẩn bị làm bánh nghi lễ – món đồ cúng không sát sinh cho ngày lễ thánh.
Súng sính trong trang phục ngày hội, những người phụ nữ tiến hành làm bánh mì nghi lễ. Bánh được làm từ loại bột tinh khiết nhất. Ngay từ khi chuẩn bị thu hoạch, những hạt lúa mì tốt nhất đã được để riêng ra, đem ra sông rửa sạch rồi sấy khô. Bột được sàng lọc qua ba lượt “lụa”, trộn với nước sạch do một cô dâu trẻ mang đến trong chiếc nồi trắng và hâm nóng trên ngọn lửa. Trong khi nướng các ổ bánh, các cô bé gái và cô dâu trẻ hát những bài hát nghi lễ.
Bánh mì Giáng Sinh gồm ba loại. Loại đầu tiên được đặt tên theo chính ngày lễ và mang tên “Bogovitsa – Đức chúa bà”, “Bozia pita – bánh chúa trời”, “Svetetz – vị thánh”. Trang trí đặc trưng của loại này là hình chữ thập và biến thể của nó – hình chữ vạn, hoa thị, hoa v.v…
 
Loại bánh thứ hai được dành cho ngôi nhà và chủ nhân. Trên bánh thường mô tả hình đập lúa, gia súc, vườn nho và thùng rượu v.v…
Loại bánh thứ ba là “bánh cuộn, cuốn tròn” với một lỗ ở giữa để tặng cho Coledari. Những chiếc bánh này do các cô gái nhồi bột và trang trí và họ tặng cho người được họ chọn trong đêm Giáng Sinh.

Медени Коледарчета
Ngày hôm sau, những người này đem chúng bán đấu giá được tổ chức bởi trên quảng trường, kinh phí thu được tặng lại cho các nhà thờ, trường học hay các phòng đọc công cộng.
Bàn tiệc đêm Giáng sinh
Giây phút thú vị nhất trong buổi tối lễ hội là ngồi quanh bàn tiệc. Bữa tối nên bắt đầu sớm để ngũ cốc sớm chín.
Người lớn tuổi nhất trong gia đình hoặc dòng họ đọc lời cầu nguyện trước bữa ăn. Ngọn lửa đốt bằng gỗ sồi hoặc gỗ cây lê trong đêm Giáng sinh phải được giữ cháy suốt đêm không để cho tắt, giữ ấm cho ngôi nhà cũng như biểu tượng của ánh sáng của sự ra đời của Chúa Jesus.
Mọi người tin rằng đêm Chúa ra đời sẽ có nhiều điều kì diệu xảy ra, sẽ mang lại sức khỏe và may mắn cho mọi người trong gia đình. Điều mơ ước có thể thành hiện thực trong năm tiếp theo, bởi vậy nên người ta thường ước trong đêm Giáng sinh điều mà năm trước họ không thực hiện được.
Bàn tiệc đêm Giáng sinh được tiến hành rất trang trọng. Chủ nhà chuẩn bị các món ăn theo số lẻ (7, 9 hoặc 11) không có thịt – đậu luộc, cơm bọc trong lá nho, ớt khô nấu với hạt ngũ cốc hoặc gạo, ớt nhồi, bánh nướng làm từ bí đỏ, ngô luộc, và các loại hạt, mật ong, trái cây, hành tây và tỏi, muối và hạt tiêu. Đặt thêm trái cây sấy khô đặc biệt, rượu vang và rượu mạnh – tất cả các thứ trồng từ đất, với hy vọng lại tiếp tục được sinh sôi trong năm tiếp theo.
Bàn bắt buộc phải được bố trí xung quanh lò sưởi, như vậy tất cả đều quay mặt về đó bởi vì người ta tin rằng bếp lửa là nơi thiêng liêng trong nhà. Dưới bàn ăn đặt bó rơm, trong đó có túi vải.
Khi tới giờ ăn, tất cả mọi người đứng thẳng bên cạnh bàn.
Người đàn ông lớn tuổi nhất – chủ gia đình, đọc lời cầu nguyện mời Chúa Trời ăn tối và cầm lấy chiếc túi trong đó gói ba hòn than và hương trầm rồi dâng hương ba lần – khắp bàn ăn, tầng hầm, chuồng ngựa, nhà kho, chuồng gà.
Người phụ nữ lớn tuổi nhất cho cây củi Yule vào lò sưởi. Ba hòn than trong túi cũng đặt vào đó theo qui ước – viên đầu tiên là lúa mì, viên thứ hai là rượu vang, thứ ba là ngô, vào buổi sáng họ lấy chúng ra xem – viên nào tro bao phủ là sinh trưởng tốt, nếu là màu đen – sẽ thu hoạch kém.
Không ai được đứng dậy khỏi bàn ăn, để gà mái không ra khỏi ổ. Nếu cần thiết phải đi thì mọi người phải khom lưng để cho ngũ cốc được trĩu nặng.
Sau khi cầu nguyện họ bẻ bánh mì bằng một đồng xu bạc và giơ lên cao để mùa màng phát triển.
Miếng bánh đầu tiên được dâng lên Đức Mẹ và đặt trước tượng thờ trong nhà, nó được giữ cho tới Giáng sinh năm sau.
Miếng tiếp theo dành cho những người đã chết, một miếng cho ngôi nhà đang ở, còn lại chia cho mọi người bên bàn ăn. Người may mắn là người trong mẩu bánh có đồng xu.
Sau bữa tiệc đêm Giáng sinh, mọi đồ ăn đồ uống còn lại vẫn để trên bàn không dọn đi suốt đêm vì người ta tin rằng có cả thần linh bảo trợ ngôi nhà đang ở đó và với hi vọng Chúa sẽ tới thăm ngôi nhà của họ. Các cô gái mang miếng bánh đặt trên bàn thờ Đức Mẹ cho xuống dưới gối của mình trong đêm Giáng sinh để mong đợi một giấc mơ đẹp về người chồng tương lai của mình.
Người ta đặt cỏ trong máng để nhớ lại nơi Đức mẹ đồng trinh đã sinh ra chúa Jesus. Sau ngày giáng sinh cỏ này được đem tết thành vòng và đem treo lên một cây nào đó trong vườn, với mong muốn cây cối sẽ xanh tươi đâm chồi nảy lộc đơm hoa kết trái cho năm sau.
Koleduvane (hát mừng Giáng sinh)
Carollers (hát mừng Giáng sinh) là yếu tố quan trọng thứ ba của ngày lễ Giáng sinh. Nó bắt đầu sau nửa đêm, các coledari lựa chọn người dẫn đầu chủ trò từ ngày hôm trước. Đó phải là người lớn tuổi và đã kết hôn, thuộc các bài hát Giáng sinh và kinh ban phước, có tâm hồn nghệ thuật, bàn tay hào phóng và trái tim nhân hậu.
Nhóm hát Giáng sinh bao gồm những người đàn ông độc thân, đã đính hôn hoặc trẻ hơn, sắp kết hôn. Họ mặc quần áo lễ hội Giáng sinh được trang trí với mũ chùm lông, tay mang “gậy sặc sỡ.”

Коледарите
Thời gian cho coleduvane được qui định nghiêm ngặt theo truyền thống – từ nửa đêm đến lúc mặt trời mọc vào ngày Giáng sinh. Theo quan niệm dân gian lúc đó xuất hiện ma quỷ, yêu tinh và các sinh vật siêu nhiên khác. Người ta tin rằng các coledari với những bài hát của họ có sức mạnh xua duổi chúng.
Họ dạo quanh các nhà đi theo nhóm, luôn luôn xuất phát theo hướng đông.Tới mỗi nhà họ hát những bài hát ca ngợi chủ nhà và chúc phúc cho họ. Chủ nhà mời các chàng trai trẻ ngồi quanh bàn và đãi rượu vang và rượu mạnh (rakia), sau đó một cô gái tặng cho họ bánh mì tròn. Họ tặng cả tiền, thịt, đậu, bột mì, rượu vang, vv.
Thường các nhóm hát Giáng sinh có cả ông già và bà già, trohober (thu nhặt bánh), gaida (người thổi kèn túi) và những người hát. Ông bà già tươi cười, trohober thu thập quà tặng, gaida thổi kèn túi, đoàn quân thì hát. Ở một số vùng các coledari làm cả các con mèo, kêu meo meo và thông báo họ đã đến. các chàng trai mặc trang phục lễ hội cho mùa rét, như vẫn thường thế, với mũ trang trí  bằng chuỗi bắp rang và một bó gỗ hoàng dương, với cái móc trong tay.

Коледарите
Khắp nơi mọi nhà chờ đợi họ với niềm vui, đau buồn, trừ nhà nào có chuyện buồn như tang tóc hoặc bệnh tật thì họ không đến.
Từ nửa đêm cho đến sáng, các coledari ghé thăm các nhà, hát các bài hát Giáng sinh với lời chúc sức khỏe, hạnh phúc trong gia đình và vụ mùa bội thu, còn chủ nhà ban tặng họ bánh Giáng sinh. Đầu tiên, hộ xuất phát đến từ nhà người nổi bật nhất trong làng – thị trưởng, linh mục hay giáo viên. Chủ nhà chào đón họ với bánh và hơi nước.

В коледарската песен, пълна с пожелания за къщата и стопаните й, думата „добро” се споменава стотици пъти.
Còn bà chủ đã thì cho lúa mì và các coledari rắc xung quanh nhà để chúng lại sinh sôi trong năm tới. Ở một số nơi, nếu trong nhà có cô gái trong độ tuổi kết hôn, cô sẽ chuẩn bị chiếc bánh đặc biệt cho người yêu cảu mìnhn. Sau đó, tất cả các bánh này được bày nơi công cộng để bán đấu giá. Mỗi chàng thanh niên mua chiếc bánh của cô gái của mình. Nếu cô gái yêu nhiều chàng trai, họ sẽ đấu giá với nhau.
Sau khi bà chủ nhà tặng quà cho đoàn hát Giáng sinh, người dẫn đầu cầm bánh lên và đọc lời cầu  phước dài cho hạnh phúc, sức khỏe và sự giàu có. Nếu đoàn Giáng sinh là không hài lòng với những món quà họ trả thù bằng cách bỏ đi cánh cổng ngoài sân.
Ngày hôm sau, 25 tháng 12, tất cả các giáo dân Kitô hữu đi đến các đền thờ tham gia lễ phụng vụ long trọng. Họ ăn tiệc và nhảy khô rô tại quảng trường hay trong sân nhà thờ.
Một dàn đồng ca biểu diễn vũ điệu Giáng Sinh truyền thống ở thành phố Varna. Trong những ngày lễ Giáng Sinh, những người hát mừng thường đến thăm từng nhà và họ được tặng nhiều quà, từ bánh sữa hình nhẫn cho tới tiền xu, thịt và đậu; càng nhiều quà càng chứng tỏ năm mới sẽ bội thu.

Thứ Tư, 11 tháng 12, 2013

Nikulden – ngày lễ Thánh Nicolas ở Bulgaria



Thánh Nicolas còn được gọi là Santa Claus và người Việt nam thường gọi là Ông già Noel. Lễ kính vị thánh này là vào ngày 6 tháng 12 hàng năm (ngày mất của Thánh Nicolas).








Có một truyền thuyết kể về việc phân chia thế giới. Trong đó Thánh Nicholas được phân các vùng biển, sông hồ, và vì thế ông được coi là người bảo trợ toàn bộ thế giới mặt nước, cũng như gió biển. Ông là vị thánh bảo trợ cho các vùng biển, sông hồ, cho các thủy thủ và ngư dân, doanh nhân và chủ ngân hàng, cho gia đình và dòng họ.Hôm nay là một trong những ngày lễ lớn nhất Bulgaria, lễ Nikulden, dành riêng cho thánh Nicholas. Nếu sấm sét trên thiên đường thuộc thánh Elias và dưới thế giới âm phủ là Michael Archangel, thì phần không gian giữa trái đất và thiên đàng là của thánh Nicholas.





Thánh Nicholas là người làm biển động, tạo ra và dừng những cơn gió. Ông đi dạo quanh biển, cứu vớt tàu thuyền, thủy thủ và ngư dân gặp nạn trên biển. Theo tín ngưỡng dân gian, khi Thánh Nicholas tức giận ông gây ra bão tố làm nhấn chìm tàu thuyền. Đó là lý do tại sao dân chúng nói rằng trong ngày lễ Thánh Nicholas (Nikulden) tất cả thuyền buồm ngừng di chuyển, để xoa dịu và tỏ lòng tôn kính bắt buộc đối với vị thánh bảo trợ.





Trong ngày lễ Nikulden nhất thiết phải ăn cá





Theo truyền thống vào ngày này trên mỗi bàn ăn phải có món cá, thường là cá chép, bởi vì theo truyền thuyết cá chép là “đầy tớ” của Thánh Nicholas.


Có một truyền thuyết nói rằng trong một lần, khi Thánh cùng với những người đồng hành của mình đi trên một chiếc thuyền, sóng biển mạnh làm thủng đáy tàu. Nicholas kéo từ dưới biển lên một con cá chép, bịt vào lỗ trên thuyền, và nhờ vậy tất cả mọi người được cứu thoát.





Ngày lễ này là để tế biển. Đồ tế lễ là cá còn nguyên vảy, cá không có vảy mang lại những suy nghĩ buồn và nghèo đói. Khi làm cá phải đánh vảy thật cẩn thận không để rơi xuống đất. Nếu vẫn có vảy cá rơi xuống đất thì không được dẫm lên, vì nếu ai dẫm lên vẩy cá sẽ không có sức khỏe tốt trong suốt cả năm. Xương cá được được thu nhặt lại và đem đốt, chôn xuống đất hoặc thả trong nước.





Cá chép được nhồi đầy gạo, bulgur, quả óc chó, hành tây và nho khô, bọc lại và nướng trong bột. Món ăn của ngày lễ được nấu như vậy và được gọi là “Rybnik”.


Rybnik – món cá chép tẩm bột, được coi là món ăn truyền thống của ngày lễ. Cá được nướng trong lò, cùng với bánh mì lễ – hai chiếc bánh cho mỗi nhà. Trong ngày lễ thánh Nicholas trên bàn ăn, ngoài món rybnik và bánh mì nghi lễ, phải có cả các món chay như: ngô luộc, lúa mì, lá rau, ớt, đậu.





Theo tục lệ, các bà nội trợ giữ lại xương đầu cá, có hình dạng như cây thánh giá.


Xương này – “krahche” hay “duna – đáy” được coi là có thể chữa bệnh. Các bà mẹ khâu nó vào mũ của trẻ sơ sinh để bảo vệ chúng khỏi những ánh mắt ác.





Có nhiều chuyện kể về đời sống đạo đức và lòng tốt của Thánh Nicholas, nổi tiếng nhất là câu chuyện ở thành phố Petra quê hương ông. Một người vốn giàu có và được tôn kính trong thành phố bất ngờ bị phá sản và không thể gả chồng cho ba cô con gái của mình vì không có của hồi môn. Một đêm, Thánh Nicholas bí mật ném qua cửa sổ nhà người đàn ông tội nghiệp đó một túi lớn đầy tiền vàng. Sáng dậy người cha không thể tin vào mắt mình – ngay giữa phòng lấp lánh những đồng tiền vàng. Ông hết lòng cám ơn Chúa và nhờ số vàng đó chẳng bao lâu sau cô con gái đầu lòng của ông đã lấy được một chàng trai tốt.


Sau đó ông lại lo lắng việc cưới gả cho cô thứ hai, thì ông lại cũng nhận được một túi tiền vàng để làm lễ thành hôn cho cô. Ngoài việc cám ơn Chúa, ông đoán là có một ân nhân nào đó bí mật giúp đỡ.


Vì còn cô thứ ba phải cưới gả, nên ông quyết định rình xem để nhìn tận mặt vị ân nhân. ”Lạy Chúa nhân từ – người cha cầu xin – hãy cho tôi thấy được ân nhân của mình!” Chẳng bao lâu mong muốn của ông được đáp ứng. Một đêm tối trời, ông nghe thấy tiếng ai đó mở cửa sổ và lần thứ ba bay vào một chiếc túi đầy vàng. Ông vội lao ra ngoài chạy theo người lạ, và khi đuổi kịp ông nhận ra Thánh Nicholas. Ông bèn quỳ xuống trước Thánh nhân và nói: “Nếu Chúa không gửi Ngài xuống cứu vớt chúng tôi, có khi tôi đã thành kẻ ăn xin hoặc một tên trộm. Cảm ơn Ngài đã giữ cho tôi tránh khỏi tội lỗi”.


Sau đó người đàn ông trở thành ngư dân và mỗi lần bắt được cá, ông đều hôn lên con cá và nói: “Vì Thánh Nicholas”. Kể từ đó, vào ngày 06 tháng 12 người ta đều ăn cá, đặc biệt là cá chép, tượng trưng cho sức mạnh và sự tốt lành.





Trương truyền rằng khi đóng xong một chiếc thuyền mới, trên đó phải gắn biểu tượng của Thánh Nicholas. Người ta tin rằng nó sẽ bảo vệ con thuyền khỏi các cơn bão to gió lớn. Những khi có bão, những người vợ ngư dân đi ra bờ biển mang theo ảnh Thánh và nhúng xuống nước ba lần như một câu thần chú để đưa người đàn ông của họ còn sống mạnh khỏe trở về.






By Thanh Hằng / https://doanbulgaria1976.wordpress.com/

Thông báo của các bạn LHSBul'69 phía nam về OFF Nha Trang 2014

(Nội dung Email của bạn Kiều Lan)
Hôm qua, CN ,bọn tôi đã họp để chuẩn bị lập hội Bul-việt tại Tp. HCM.
Trong chương trình , có bàn qua về chuyến họp mặt tại Nha Trang 2014 . Bạn Phượng Ko có mặt và cũng đã chính thức từ chối làm tour tiếp ( Mai báo thế) vì con mới sinh , tổ chức ở Nha Trang chưa chắc đã có mặt . Thông cảm vậy !
Vì vậy tôi chính thức được Mai báo lo tổ chức chuyến họp mặt ở Nha Trang cho hội Bul'69 .

Các bạn cho tôi hỏi :
1. Họp mặt ở Nha Trang 3 hay 4 ngày ?
2.Thời gian dự kiến họp mặt là tuần cuối tháng 3.2014 được Ko ? khoảng 24-29.3.2014
3. Ngoài Nha Trang , các bạn phía bắc có đi đâu nữa Ko ? Buôn ma Thuột hay Đà lạt ? Cho biết để tôi làm tour và kiếm nhà cung cấp tour .
Các bạn SG sẽ đi tàu lửa ra Nha Trang và về SG , Ko đi tour khác .
4. Nếu ở Nha Trang, mình ở nhà khách tỉnh Ủy hay UB gì đó , cỡ 2 sao được ko ? Miễn là sạch sẽ, có máy lạnh , nước nóng lạnh là được rồi , được Ko ?

Mọi vấn đề khác tôi sẽ tiếp tục thông tin cho các bạn . Tùy thời gian , tôi sẽ tự lên chương trình tour , book KS , tìm nhà cung cấp các dịch vụ khác tại địa phương ... và nói chung là có thể hoàn toàn mình tự làm các khâu nào mình tự đàm phán , thu xếp được , Ko cần Cty du lịch lo trọn gói như đề nghị ban đầu của bạn Phượng .
Trả lời gấp nhé và tôi sẽ thông tin tiếp . Tôi có người quen ở Nha Trang nên có thể nhờ dân địa phương chạy tới chạy lui , khảo sát dùm ( miễn phí ).
Chúc một tuần vui vẻ.
À, nhờ Loan book dùm 10 cái quạt lá cọ nhé. HN đang lạnh , mà SG đang quạt máy đây !
Thân mến , KL

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

Con muốn mua một giờ của bố! (Cảm ơn BTT cho phép Share)









Một người cha đi làm về rất muộn, mệt mỏi và bực bội sau một ngày bận rộn ở cơ quan. Ông vừa về đến nhà, đứa con trai năm tuổi đã ngồi chờ từ lúc nào và hỏi:


- Bố ơi, con có thể hỏi bố một câu được không?

- Được chứ, gì vậy? – Người cha đáp.

- Bố, một giờ làm việc bố kiếm được bao nhiêu tiền?

- Đó không phải là chuyện của con, tại sao con lại hỏi bố như vậy?

- Con chỉ muốn biết một giờ bố kiếm được bao nhiêu tiền thôi mà, nói cho con nghe đi, bố – Cậu bé nài nỉ.

- Nếu con cần phải biết thì bố nói đây, bố làm được 20 USD một giờ.

- Vậy hả bố – Cậu bé cúi mặt đáp – Con có thể mượn bố 10 USD được không?


Người cha nổi giận: “Nếu con vay tiền bố chỉ để mua đồ chơi vớ vẩn hay mấy thứ vô bổ gì đó thì hãy đi ngay về phòng, lên giường nằm và suy nghĩ xem tại sao con lại có thể ích kỷ như vậy. Bố phải làm việc vất vả suốt cả ngày rồi, bố không có thời gian cho những trò trẻ con như thế này đâu”.


Cậu bé lặng lẽ đi về phòng, đóng cửa lại. Người đàn ông ngồi xuống và càng tức giận hơn khi nghĩ đến những điều con trai mình vừa hỏi: “Tại sao nó lại dám hỏi mình những câu hỏi như vậy chỉ để xin tiền thôi nhỉ?”.


Khoảng một giờ sau, khi đã bình tĩnh lại, anh nghĩ có lẽ mình hơi nghiêm khắc với con. Có thể nó thật sự thiếu 10 USD để mua thứ gì đó và thực ra nó đâu có thường hay xin tiền mình. Anh tiến về phía phòng con trai và mở cửa.


- Con đã ngủ chưa, con trai? – Anh hỏi.

- Chưa bố ạ, con vẫn còn thức.

- Bố nghĩ có lẽ lúc nãy bố quá nghiêm khắc với con. Hôm nay là một ngày dài và bố đã trút sự bực mình lên con. Đây, 10 USD mà con đã hỏi – Người cha nói.


Thằng bé ngồi bật dậy, mỉm cười và reo lên: “Ôi, cảm ơn bố!”. Rồi nó luồn tay xuống dưới gối lôi ra mấy tờ giấy bạc nhàu nát. Nhìn thấy tiền của thằng bé, người đàn ông lại bắt đầu nổi giận. Thằng bé chậm rãi đếm từng tờ bạc một rồi ngước nhìn bố nó.


- Tại sao con đã có tiền rồi mà còn xin bố nữa ? – Người cha nói trong giận dữ.

- Bởi vì con còn thiếu, nhưng bây giờ thì đủ rồi ạ… Bố, bây giờ con có 20 USD, con có thể mua một giờ của bố không? Ngày mai bố hãy về nhà sớm, con xin bố, con muốn được ăn tối cùng với bố – cậu bé nói.


Người cha như chết lặng người. Anh vòng tay ôm lấy cậu con trai bé nhỏ và cầu xin sự tha thứ.




Đây chỉ là một lời nhắc nhở rất ngắn ngủi gửi đến cho tất cả những ai đang làm việc vất vả cho cuộc sống của mình. Chúng ta đừng để thời gian vuột mất khỏi bàn tay mà hãy dành thời gian cho những người thực sự quan trọng với chúng ta, những người gần gũi với chúng ta nhất. Hãy luôn nhớ chia sẻ giá trị một giờ của bạn cho tất cả những ai mà bạn yêu quý.


Bởi nếu ngày mai bạn không còn tồn tại, những nơi mà bạn đang cống hiến, làm việc có thể dễ dàng cử một người khác thay thế vị trí hiện tại của bạn. Tuy nhiên, gia đình và bạn bè luôn cảm thấy đau khổ khi mất đi bạn – phần còn lại trong cuộc sống của họ. Hãy suy nghĩ về điều này bởi chúng ta luôn tự ép mình dành nhiều thời gian cho công việc hơn là gia đình. Bạn thân mến, bạn nên biết và hiểu điều nào là quan trọng hơn.





Един човек се прибрал късно от работа, както винаги изморен и изнервен, а на вратата го чакал неговият малък син.


- Тате, може ли да те попитам нещо?

- Разбира се, какво има?

- Ти каква заплата получаваш?

- Това не е твоя работа… – намръщил се бащата – и защо ме питаш такова нещо?

- Просто искам да знам, моля те, кажи ми, колко получаваш за един час?

- Щом толкова искаш да знаеш – 20 лева…

- О… – детето се замислило – Тате, може ли да ми дадеш 10 лева?

- Ако искаш пари от мен, за да си купиш някоя глупава играчка или някоя друга глупост, – ядосал се бащата – заминавай в стаята си и лягай да спиш! Как може да си такъв егоист! Аз работя по цял ден и съм толкова уморен, а ти ме занимаваш с такива неща…

Детето тихо отишло в стаята си и затворило вратата.

Бащата седнал, и макар, че бил ядосан, се замислил над въпросите на сина си. След около час, вече доста по-спокоен, се зачудил дали пък тези пари не му трябват за нещо важно… Това били само 10 лева, а и не се случвало често детето да му иска пари.

Бащата отишъл в детската стая.

- Не спиш ли? – попитал той.

- Не тате, просто си лежа – отвърнало момчето.

- Съжалявам, имах тежък ден и се отнесох доста грубо с теб – казал бащата – Ето, вземи парите, за които ме помоли.

Детето се усмихнало.

- О, тате, благодаря ти! – радостно възкликнало то – След това бръкнало под възглавницата и извадило още няколко измачкани банкноти. Виждайки, че детето има още пари, бащата отново се намръщил. А малчуганът събрал банкнотите, внимателно ги преброил и погледнал към баща си.

- Защо ме молиш за пари, след като вече си имаш? – попитал бащата.

- Защото бяха недостатъчно. Но сега вече ще ми стигат. – отвърнало детето – Тате, тук са точно 20 лева. Мога ли да си купя един час от твоето време? Моля те, ела си утре по-рано от работа, защото много искам да вечеряш заедно с мен и мама.

Бащата бил съкрушен. Той прегърнал малкия си син и го помолил за прошка.




Това е просто едно напомняне за всички нас, които работим толкова много и даваме голяма част от времето и енергията си за неща, които не са най-важните в живота… и за съжаление, доста често, изнервени и изморени, пренебрегваме и нараняваме любимите си хора, забравяйки кое е истински значимо за нас… Не бива да оставяме времето да отминава, без да сме прекарали достатъчно време, с хората, които наистина имат значение за нас, тези, които са в сърцата ни. Защото, ако умрем утре, фирмата, в която работим ще ни замени само на няколко дни, но близките и приятелите, които ще оставим, ще чувстват празнина от загубата ни до края на живота си. Защото в живота, не парите или работата, а времето прекарано с хората, които обичаме, е истински ценно!”